Hoa Học Trò
Hoa Học Trò
Hoa Học Trò
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Hoa Học Trò

Thơ Nhạc - Hình Ảnh - Quê Hương .
 
Trang ChínhTrang Chính  Liên kếtLiên kết  GalleryGallery  Tìm kiếmTìm kiếm  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  
Giờ VN
Similar topics
April 2024
MonTueWedThuFriSatSun
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
2930     
CalendarCalendar
Latest topics
» Mối tình phòng trà xưa: Danh ca Thái Thanh và 'chuyện ba người'
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Tue Sep 30, 2014 1:27 pm

» Được im lặng đến khi có luật sư
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Thu Sep 25, 2014 4:33 am

» ẢNH NUDE QUỐC ĐỊNH
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Fri Sep 19, 2014 5:12 am

» Ht- Độc Tấu Đàn Tranh Nguyễn Thanh Thủy - Nguyễn Thanh Thủy, Đàn Tranh
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Sun Feb 03, 2013 2:52 am

» Cư dân mạng sốt vì "Lời mẹ dặn con gái trước khi lấy chồng"
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Sun Dec 16, 2012 12:29 pm

» HÌNH ẢNH SÀI GÒN NGÀY XƯA
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Mon Oct 15, 2012 5:41 am

» tho muoi_tieuthu
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Mây Mùa Thu Wed Sep 19, 2012 1:25 pm

» Công nương Anh bật cười khi thấy phụ nữ ngực trần
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Tue Sep 18, 2012 8:14 am

» Bảo Trân tinh khôi trong tà áo dài trắng
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Mon Aug 27, 2012 6:24 am

» Compagnon Disparu (Áo Em Thu Vàng) - Ngọc Lan
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Sat Aug 25, 2012 12:18 pm

» Playlist : Tình Nhớ ( Khánh Ly ) 1985
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Fri Aug 24, 2012 12:49 pm

» Lối Thu Xưa
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Fri Aug 24, 2012 7:15 am

» Nhạc Guitar cổ điển
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Sun Aug 19, 2012 2:06 pm

» Bí mật đêm "mây mưa" của hoàng đế Trung Quốc
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Sun Aug 19, 2012 3:18 am

» Chị Tôi ( Mùa Thu Cho Em )
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Wed Aug 15, 2012 3:22 am

» Kiếp Dã Tràng (Nhạc )
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Tue Aug 14, 2012 12:42 pm

» Xem ốc sên, kiến trổ tài 'đi' trên mặt nước
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Mon Aug 13, 2012 4:10 am

» Chiêm ngưỡng bộ xế Rolls-Royce biển đẹp tại Việt Nam
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Mon Jul 09, 2012 1:22 pm

» Xem chàng trai tháo bỏ nam tính để thành nữ
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Mon Jul 02, 2012 5:35 am

» Ảnh biểu tình ngày 01/7/2012
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Mon Jul 02, 2012 5:19 am

» Nước Nga thu nhỏ trong 800 m2
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Mon Jun 18, 2012 1:22 pm

» Bất ngờ với tượng "sex" tại công viên Tình Yêu xứ Hàn
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Wed Jun 13, 2012 3:57 am

» Phạm Thiên Thư - Ðộng hoa vàng
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Mon Jun 04, 2012 1:44 am

» Nhảy từ độ cao 730m không cần dù
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Thu May 24, 2012 1:41 pm

» Những hình ảnh hiếm về VN trước năm 1954
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Sat May 12, 2012 2:13 pm

» him ‘Bẫy cấp 3’ có thể bị cấm chiếu
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Wed May 09, 2012 2:30 am

» “Choáng” với tranh 3D siêu thực giữa phố
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Sun Apr 29, 2012 6:48 am

» 'Con ngựa thồ' đặc biệt của NASA
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Fri Apr 13, 2012 3:24 pm

» Khát vọng bất tử và chuyện truyền kỳ về thuật ướp xác của người Việt (Kỳ 1&2 )
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Wed Apr 11, 2012 2:10 pm

» “Titanic” – những khoảnh khắc nhìn lại…
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Wed Apr 11, 2012 2:02 pm

» Người sở hữu hoàng bào triều Nguyễn
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Sun Apr 08, 2012 7:07 am

» Vĩnh biệt nhạc sĩ "Nỗi buồn hoa phượng"
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Thu Apr 05, 2012 10:50 am

» Chiêm ngưỡng quần thể biệt thự của Diễm My
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Thu Apr 05, 2012 9:08 am

» Sài Gòn xưa... Sài Gòn: Khung trời của những kỷ niệm xưa
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Tue Apr 03, 2012 3:54 am

» Xôn xao với loạt ảnh “nóng” của người mẫu Trung Quốc
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Sun Apr 01, 2012 9:12 am

» Phát hiện kho báu khổng lồ bên trong biệt thự cổ ở St. Petersburg
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Sun Apr 01, 2012 9:10 am

» 20 tờ bạc đẹp nhất thế giới
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Sun Mar 18, 2012 10:24 am

» Bi Rain mặc quân phục đến Việt Nam
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Sun Mar 18, 2012 10:14 am

» Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*) Bùi Vĩnh Phúc
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Sat Mar 03, 2012 3:48 am

» 30 nguyên tắc vàng đối nhân xử thế của Đắc nhân tâm
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Fri Feb 24, 2012 9:23 am

» Cận cảnh "quái vật biển sâu" vừa bị bắt
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Fri Feb 24, 2012 8:58 am

» Tết của người Hà Nội xưa qua ảnh
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Fri Jan 27, 2012 5:15 am

» Lễ hội mùa xuân kỳ lạ của người Nhật
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Tue Jan 24, 2012 3:49 pm

» Bùi Giáng có thật sự làm thơ?
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Tue Jan 24, 2012 6:04 am

» Xuan nham thin 2012 ( dem 28 Tet )
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Sun Jan 22, 2012 7:10 am

» Đường phố Sài Gòn lung linh đón Tết
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Fri Jan 20, 2012 4:26 am

» CÁC BÀI VĂN CÚNG TRONG DỊP TẾT NHÂM THÌN VÀ HƯỚNG XUẤT HÀNH
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Wed Jan 18, 2012 4:12 am

» Những điểm du lịch hấp dẫn dịp cuối năm
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Tue Dec 27, 2011 11:01 am

» Nude art Quốc Định
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Mon Dec 26, 2011 6:28 am

» Chúc Mừng Năm Mới - 2012
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Emptyby Admin Sun Dec 25, 2011 2:34 pm


 

 Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*) Bùi Vĩnh Phúc

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 141
Join date : 27/07/2010

Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  Empty
Bài gửiTiêu đề: Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*) Bùi Vĩnh Phúc    Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*)      Bùi Vĩnh Phúc  EmptySat Mar 03, 2012 3:48 am

Người đã bỏ đường kia ở lại
Ðể đi vào đối diện hư không
Bờ thánh thót thu sau về vạn đại
Lời chào kia nức nở lạnh vân mồng.
(Lá Hoa Cồn)


1.
Người
thi sĩ ấy đã ra đi. Cho dù người đã yêu thương thắm thiết trần gian và
cuộc tồn sinh này. Nhưng giờ hẹn đã đến, và người phải rời bỏ cuộc lữ
hiện tại để lên đường đi về một biên giới khác. Cho dù cuộc lữ người vừa
rời bỏ có thể vẫn còn lắm chuyện thiết tha, người đã bỏ con đường kia ở
lại. Trước khi đi vào đối diện hư không, giữa lòng những đêm thâu lục
nhạt của cuộc đời, người đã nằm suy nghĩ và mơ ước những gì? Có phải
người mơ được trở lại "một miền quê hẻo lánh, xung quanh có ruộng đồng
sông núi trùng điệp, những đám cỏ chạy dài suốt cả tuổi thơ"(1) .
Người
muốn trở về đó để tìm kiếm lại một màu xanh không còn nữa của những
tháng ngày tuổi nhỏ, hay để tìm lại một ánh trăng châu thổ, một giọt
sương tỳ hải, hoặc những cánh châu chấu chuồn chuồn mà ai đó đã thả đầy
trong mấy vạt nắng mong manh sầu úa một chốn quê nhà? Chốn quê nhà kia,
nơi có những bóng tre, một màu rạ, một bờ ruộng, một con đường, một khúc
sông... mà lúc nào người cũng mãi gìn giữ trong chính thịt xương thân
thể mình:
Con đường, bờ ruộng, khúc sông...
Bóng tre, màu rạ như trong ruột rà
(Martin Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Ðại II)
Hay là người vẫn còn mãi nhớ về bờ lúa cũ, nơi người vẫn còn nhìn thấy in đậm một dấu chân em:
Em chết trên bờ lúa
Ðể lại trên đường mòn
Một dấu chân bước của
Một bàn chân bé con
Anh qua miền cao nguyên
Nhìn mây trời bữa nọ
Ðêm cuồng mưa khóc điên
Trăng cuồng khuya trốn gió
Mười năm sau xuống ruộng
Ðếm lại lúa bờ liền
Máu trong mình mòn ruỗng
Xương trong mình rã riêng
Anh đi về đô hội
Ngó phố thị mơ màng
Anh vùi thân trong tội lỗi
Chợt đêm nào gió bờ nọ bay sang.
(Bờ Lúa, trích nguyên bài)
Hay là người muốn trở lại những ngày xưa để lùa bò vào đồi sim trái chín:
Anh lùa bò vào đồi sim trái chín
Cho bò ăn cỏ giữa rừng sim
Anh nhìn lên trời xanh đỏ chín
Anh ngó bốn bề cây lá gió rung rinh

Cây lá bốn bên song song từng lứa
Sánh đôi nhau như ứa lệ ngàn hàng
Hạnh phúc trời với đất mang mang
Với bò giữa rừng hoang đương gặm cỏ
Với người ngó ngất ngây đương nằm đó
Không biết trời đất có ngó mình không
(Anh Lùa Bò Vào Đồi Sim Trái Chín)
Hay
người muốn tìm lại những ngày tháng ngao du cũ, những sương bình
nguyên, một màu hoa trên ngàn, và những đêm sâu đầy màu sử lịch của một
khúc sa mạc trường ca? Người đã sống điên dại giữa đời, hay đúng hơn,
người đã chọn một cuộc chơi vĩ đại, trầm thống với tất cả "thân thể máu
me và da xương" của chính mình mà mẹ cha cũng như trời đất đã ban cho.
Chẳng mấy kẻ trên đời này đã dám xông vào trận như thế. Người làm ta
nghĩ đến Paul Gauguin, kẻ đã dám từ bỏ thế giới văn minh của con người
để đi tìm một sắc màu thơ mộng mới cho chính cuộc tồn sinh mình.
Gauguin, cũng như người, đã suốt đời lang thang để đi tìm một màu hoa sơ
thủy. Người cũng đã làm ta nghĩ đến Van Gogh, kẻ đã tự ý đánh mất cái
khôn ngoan của những con người sống giữa đời thường, để có thể đi sâu
vào trong ánh sáng điên cuồng chói lọi của những starry nights,
của những đêm sao lồng lộng, và nhìn ra ở đó những chính bản của cuộc
đời. Cuộc đời như chúng ta đang sống chỉ là những phó bản với thật lắm
điều sai chệch. Bùi Giáng đã van xin:
"... Hãy
để yên cho tôi điên tôi dại. Ðừng ai nói đến tôi. Và nhất là đừng có
bàn đến thơ tôi. Tôi không dám si mê, cũng không dám hoài vọng. Một mai
tôi chết. Nghĩa là tôi không còn sống. Tôi sống trong cơn dại cơn điên.
Tôi làm thơ trong cơn điên cơn dại. Nghĩa là tôi chết hai ba lần trong
trận sống
..."
Hãy nghe lời kinh Cầu Nguyện Ca mà người thi sĩ đã viết:
Hãy mang tôi đến giữa đời
Giết tôi chết giữa cõi đời mốc meo
Hãy mang tôi tới nắng chiều
Giết tôi chết giữa một triều khe nương
Hãy mang tôi tới dặm trường
Giết tôi chết giữa con đường bơ vơ
Hãy mang tôi tới bất ngờ
Giết tôi ngẫu nhĩ trong giờ ngẫu nhiên
Hãy mang tôi tới diện tiền
Giết tôi chết giữa người thuyền quyên kia....
(Sa Mạc Trường Ca)

2.
Nhắc
đến Bùi Giáng, người ta hay nói về thơ của ông. Ðó cũng là điều tất
nhiên. Ông là một thi sĩ bát ngát, ngây thơ và cỏ hoa điên đảo. Cỏ hoa
điên đảo trong cõi đời cũng như trong những cõi phi-đời và pha-đời. Còn
ngây thơ, bát ngát là ở trong cõi bờ tịch lặng của triết lý uyên nguyên
mà ông vẫn hằng lui tới. Thơ Bùi Giáng tràn đầy thiên nhiên hoa cỏ của
một thế giới sơ đầu vẫn còn giữ mãi một hồn nguyên tiêu ẩn mật. Thơ ông
đựng đầy ẩn ngữ, mật ngữ, nhưng không trì nặng mà vẫn bay lượn phiêu
diêu như những cánh châu chấu chuồn chuồn ở ngoài đồng nội. Ông làm thơ,
nhưng không cần biết thơ là gì:
Bắt chước ông Khổng Tử
Con chim thì ta biết nó bay
Con cá thì ta biết nó lội
Thằng thi sĩ thì ta biết nó làm thơ
Nhưng thơ là gì
Thì đó là điều
Ta không biết
(Sa Mạc Trường Ca)
Kẻ thi sĩ không biết thơ là gì, nhưng ông biết rõ tại sao ông lại làm thơ:
"Thơ
tôi làm (...) chỉ là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Ði vào giữa
trung tâm bão động một lúc thì lập tức xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng
vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu chuồn chuồn, đem phó thác thảm họa
trần gian cho chuồn chuồn mang trên hai cánh mỏng bay đi. (...) [T]ôi ra
bờ sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm bao
thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao..."


những người đã thử bàn về thơ của Bùi Giáng. Tôi cũng đã thử có lần
"vạch hai lá cỏ ra nhìn" để rủ một lũ chuồn chuồn châu chấu trở về bay
liệng trong thơ ông(2). Tôi yêu cái hình ảnh của Bùi Giáng trong một màu trăng châu thổ và trong đìu hiu của hoang vu những Lá Hoa Cồn, hay trong những Bài Ca Quần Đảo;
nhưng tôi cũng rất thích cái nét thơ ngây uyên bác đầy nhiệt tình,
nhiệt thú, nhiệt huyết và nhiệt mộng của ông trên cả hơn một ngàn trang
sách trong ba tập Tư Tưởng Hiện Ðại (in khổ lớn). Ðể thấy được những nét tài hoa và cái đọc, cái biết phơi phới(3)
của Bùi Giáng về văn học, tư tưởng và triết lý Tây Phương cũng như Ðông
Phương, tôi nghĩ người ta phải tìm vào những trang sách này. Những
trang sách mà Bùi Giáng đã viết trong những năm ngoài ba mươi tuổi của
mình, những năm đầu thập niên sáu mươi. Con người này tài hoa rất mực,
chu du trong thế giới tư tưởng và ngôn ngữ Tây Phương nhưng lúc nào cũng
yêu thương thắm thiết một màu hoa trên ngàn của ngôn ngữ Việt.

lần ông nói với Trần Tuấn Kiệt là ông viết về triết học, bàn về tư
tưởng hiện đại là để cuối cùng nêu lên mấy câu về Kiều hay của Huy Cận
chơi. Quả thật là có thế. Nhưng không phải chỉ là như thế. Bùi Giáng nói
chơi đấy thôi. Trong những quyển này, ông bàn về một số những khuôn mặt
lớn của tư tưởng hiện đại như Karl Jaspers, Jean-Paul Sartre, André
Malraux, Saint-Exupéry, Gabriel Marcel, Albert Camus, Paul Claudel,
Simone Weil, Martin Heidegger, William Faulkner, Nietzsche,
Kierkegaard... Từ những khuôn mặt này, và đặc biệt là từ Heidegger, Bùi
Giáng đã bàn rộng ra về những vấn đề của triết lý và tư tưởng hiện đại.
Ðọc mấy cuốn này để hiểu Bùi-Giáng-trẻ là như thế nào. Ông vẫn luôn là
một nhà thơ, một con người hết sức thơ mộng. Nhưng ông lại là một con
người của lý luận và mang đầy tính "vượt biên" trong cung cách dắt dìu
ngôn ngữ, tư tưởng của mình. Ông gạt bỏ mọi rào cản trong sự diễn tả và
trong mạch lý luận. Ông sẵn sàng đưa Khổng, Lão, Trang cũng như cả Thúy
Kiều, Kim Cương, Phùng Khánh, Brigitte Bardot, Marilyn Monroe, Dương Quí
Phi, Ariane, Diane, Nausicaa, Juliet, Desdemona... vào trong cuộc thảo
luận mà ông bày ra với Heidegger, Nietzsche, Sartre, cũng như với những
nhà tư tưởng lớn khác của thế giới. Bùi Giáng cho rằng những người con
gái đó "Phải trở về bủa rộng chiêm bao để thiết lập mộng luân lưu giữa thời gian bay múa", và có như thế thì "Cuộc tồn hoạt của tồn sinh [mới] được tiếp xúc trở lại với hương màu vạn cổ...".
Bùi
Giáng không thích Sartre vì, trong cái nhìn của ông, Sartre đã quá bất
công với Camus, không hiểu Faulkner cũng như kỹ thuật thời gian đồng
hiện của nhà văn này trong The Sound and the Fury (Âm thanh và Cuồng nộ), và không ngay thẳng với Heidegger. Sartre đã tìm cách giết chết Camus trong việc "giải thích" L'Étranger (Người xa lạ) một cách không đúng tinh thần mã thượng trong bài Explication de l'Étranger (Giải nghĩa Người xa lạ) của
mình. Và Sartre đã bóp méo, xuyên tạc, rồi sau đó tấn công Heidegger,
tung hỏa mù về tư tưởng của Heidegger vào thế giới trí thức Tây Phương.
Trong quyển đầu, Tư Tưởng Hiện Ðại,
Bùi Giáng còn khá nghiêm túc, tính chất "vượt biên" trong ngôn ngữ, tư
tưởng của ông, phần lớn, còn nằm đằng sau những con chữ, những mặt chữ,
chứ chưa lộ hẳn ra ngoài. Những nhận định của ông về Sartre, trong khi
bàn về Camus, còn sự quý mến và nể trọng. Qua đến quyển hai, Martin Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Ðại I, vì giận Jean Wahl, giáo sư Đại học Sorbonne, qua quyển Vers la Fin de l'Ontologie của ông này nhằm phê bình quyển Introduction à la Métaphysique (Siêu hình học nhập môn)
của Heidegger, và giận Sartre trong việc ông cho rằng Sartre đã xuyên
tạc triết gia này, có những chỗ Bùi Giáng đã "mày tao chi tớ" với họ.
Ông cho rằng Jean Wahl đã “Bám
vào những chi tiết mấp mô mà bỏ quên nguồn thác chảy. Cái phần sâu thẳm
trong chiêm niệm viễn tượng siêu hình "dư dục vô ngôn" Heidegger gọi là
cái phần Im-pensé [...] hoàn toàn bị Jean Wahl và Sartre hững hờ không
dọ tới. Jean Wahl là hình ảnh biểu trưng trọn vẹn cái sa đọa của duy lý
thô thiển mài miệt trong cái học công truyền đo đếm quanh năm [...] Cái
gì gì Jean Wahl cũng nằng nặc đòi cho được "tout à fait". Ðức Khổng Tử
thấy vậy, Ngài bèn lắc đầu: Nếu đòi hỏi mãi cho được cái "tout à fait"
thì than ôi! còn chi là cái cõi lòng của ta nữa [...] Cái phần vô-suy tư
là cái phần quý báu ta trao gửi êm đềm cho mỗi mỗi Hãy mở tâm thức mình
ra mà đón lấy...”.

Bàn
về việc Sartre, trong cái nhìn của Bùi Giáng, bóp méo và xuyên tạc rồi
tấn công Heidegger trong khái niệm "In-der-Welt-sein"của triết gia này
trong cuốn l'Être et le Néant (Hữu Thể Và Hư Vô) của mình, Bùi Giáng viết:
"
đây, rõ ràng ý Sartre muốn triệt để công kích Heidegger cho tả tơi tan
tành trong-hào-ngoài-lũy-bằng cái toán quan quân kỳ dị truy sát đuổi
dài. Bởi đâu ta dám bảo như vậy. Bởi rằng: cái tiếng
l'être-au-milieu-du-monde là tiếng của Heidegger.Vật-thể-trong-đời hay tại-thể-trong-thế-gian chính là In-der-Welt-sein
- một khái niệm cốt yếu trong tư tưởng Heidegger. Và sở dĩ ta bảo rằng
đám loạn quân truy sát của Sartre quả thật là kỳ dị, ấy bởi rằng: Sartre
xuyên tạc trước, rồi tra tấn sau. Sartre bóp méo tư tưởng của người ta
rồi lên án người ta.

Cái
khái niệm "trong đời" của Heidegger không có nghĩa ù lì, trơ trơ gỗ mục
như Sartre bảo. Tại-thể-trong-đời, là xuất võng ngoại tồn phát tiết
tinh hoa ra ngoài cõi đời để mở-phô-đời-cõi, thiết lập lại bên dòng cái
cuộc đời rời rã cho kết-tụ-tròn-đầy lài liễu soi gương, khâm phụng lên
đường theo thiết tha phóng hoạt - là thiên chức con người trước tiếng
gọi Vô Ngôn.

Sartre
đã đẩy Logos Hình Nhi Thượng của Heidegger cho té xuống bình diện Hình
Nhi Hạ. Phusis bị dập hết hương màu. Thế còn chi là hồng nhan em Thúy?
Tha hồ mà đo đếm đuổi xô. Ðem bụi lầy bết vào thân tiên tử, đem bùn-đen
trát vào mình mẩy mềm mại của giai nhân, rồi la to: - Con đĩ kia ơi! Mày
hãy đưa tứ chi cho ông xiềng xích lại, rồi vào ngục tối mà nằm. Ông là
nhân viên kiểm tục.

Duy
có điều: Sartre vẫn đáng được ta mến là ở chỗ: Cái điệu tài-tình-ba-gai
của Sartre nghe ra lắm chiều ngộ nghĩnh. Dường như Sartre thử đùa một
cuộc chơi để xem thử thiên hạ sẽ nghĩ như thế nào. Nếu ta nói chơi, mà
đời lại nghe theo làm thật, lại ngây thơ hơn con trẻ, cứ lượm đá mà ném
mãi vào thân thể giai nhân để tự-biến-mình-làm-quỷ thì cũng là đáng cho
cái kiếp các ngươi lắm đó. Giai nhân chết đi, thì rồi các người sẽ cưới
ma-cuồng về mà ôm ấp
(...)"(4).
Phong
cách diễn tả của Bùi Giáng cho thấy ông có sở học rộng, mặc dù ông cũng
rất chủ quan. Ở đây, ông là một nhà phê bình; nhưng cái chất nghệ sĩ
trong con người ông còn mãnh liệt hơn cái chất phê bình kia. Và nghệ sĩ
nào mà lại không chủ quan. Ông có cái tài hoa trong ngôn ngữ, cái nhiệt
tình trong việc bênh vực cho lẽ phải trong quan điểm của mình, và cái
cao ngạo, "pha" đời của một người coi thường cái học từ chương, trường
ốc, khinh thường cái nhóm "trường trại lao xao". Tự nói về ngôn ngữ của
chính mình, ông bảo: "Lời mông-lung-cỏ-lá là xem thường
hệ-thống-lý-luận-phỉnh-gạt của những phường giá áo túi cơm là cá chậu
chim lồng" (Martin Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Ðại I)"Ðã
là người Việt Nam thì chẳng lẽ lại viết triết học bằng chữ. Phải viết
bằng lời. Mà lời của biển dâu không thể là lời văn xuôi. Phải là lời thơ
"tái tân thanh" tái tạo. Văn xuôi cũng phải buộc là thơ. Và mở cửa cho
thơ rúc vào nằm trong
một vòng tròn trịa méo mó ôm nhau."(Martin Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Ðại I).
Bởi
vậy, cho dù ngoài thơ ra, Bùi Giáng có dịch một số tác phẩm của văn
chương thế giới, có bình luận chú thích về tư tưởng hiện đại, thật sự,
tất cả những gì ông viết ra đều nằm trong một bài thơ lớn. Một bài thơ
lớn theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Bài thơ đó chính là đời sống của
ông, là cuộc tồn lưu kỳ thú mà ông đã chọn lựa để sống trọn vẹn sinh
mệnh mình trong cuộc lữ trần gian này:
Tôi đã nguyện yêu trần gian trọn vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương.
(Mưa Nguồn)
Bùi Giáng viết mấy quyển Tư Tưởng Hiện Ðại
chỉ là để, cuối cùng, nêu lên mấy câu của Tố Như trong Kiều hay mấy câu
thơ của Huy Cận. Thì thực là như thế đó. Nhưng ông cũng viết những
quyển sách ấy để nói lên những vấn đề trầm trọng của Sử Lịch Việt Nam,
của con người Việt Nam giữa mấy trời lửa khói:
Bóng mây trời cũ hao mòn
Chiêm bao náo động riêng còn hai tay
Tấm thân với mảnh hình hài
Tấm thân thể với canh dài bão dông
Cá khe nước cõng lên đồng
Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng
Tạ từ tháng chạp quay nghiêng
Ầm trang sử lịch thu triền miên trôi

Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng với lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con
(Mắt Buồn, trích nguyên bài trong tập Mưa Nguồn)
Ầm trang sử lịch. Sử Lịch. Hình như đây là chữ đặc biệt của Bùi Giáng. Trước ông, hình như chưa có ai dùng từ sử lịch.
Và kể từ Bùi Giáng, mỗi khi viết về ông, hoặc mỗi khi viết theo thể
điệu của ông, người ta thường dùng từ này để nói lên cái tính lịch sử
của đời sống, của con người, của một cuộc lữ, hay của một vòng quay, một
dòng vận động. Có thể nhiều người trong chúng ta thấy từ ấy lạ, đầy nét
Bùi Giáng, và đã tưởng là người thi sĩ cho "nét chữ lên đàng quẩn
quanh". Và chúng ta cũng cho nét chữ của mình quanh quẩn lên đàng đuổi
theo nét chữ của người. Ðiều đó cũng là hợp lý khi đi tìm hay khi nói về
phong cách của nhà thơ. Có lẽ ít người biết rằng, dù là có một phong
cách dùng từ độc đáo, trong việc dùng từ "Sử Lịch" này, Bùi Giáng có
quan niệm rõ ràng của ông. Ông sáng tạo ra từ "Sử Lịch"- hoặc nếu nó đã
có trước đó, trong văn mạch của ông nó đã được dùng theo một nghĩa đặc
biệt - để diễn một khái niệm triết lý của Heidegger. Ở đây không phải
chỉ là chuyện "hóa ra nét chữ lên đàng quẩn quanh" mà thôi. Sử Lịch là
Lịch Sử nhuốm đẫm màu thời gian pha phôi thiên cổ. Ở phần phụ lục cuối
sách trong quyển Martin Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Ðại II, trong phần chú giải về những ngôn từ cốt yếu của Heidegger (vài chục từ) mà Bùi Giáng có nhắn gửi với người đọc là: "Nắm lấy chừng này Ngôn Từ, bạn sẽ có cái Chìa Khóa mở một Cửa Mộng", ông chú giải về từ Geschichte theo thể điệu Bùi Giáng:
Geschichte: Sử Lịch, Sử Mệnh, Sử Kiếp, Hồng Sử, Thanh Sử...
Trên trang sách Heidegger, tiếng Geschichte có âm vang kỳ bí não nùng như những tiếng Cổ Lục Sử Xanh của Nguyễn Du. Trong Ðức ngữ cũng có tiếng Historie như History (Anh), Histoire (Pháp).
Theo nghĩa thông dụng thì trong Ðức ngữ hai tiếng Historie Geschichte vẫn không khác gì nhau. Nhưng trong sách Heidegger thì triết gia phân biệt hẳn hai nghĩa. Historie được dùng theo nghĩa sử là sử ký, sử sự, sử kiện, sử chi li biến cố. Tĩnh tự là historisch. Còn Geschichte
thì có nghĩa man mác mênh mông của Thời Gian hòa vào Vĩnh Thể trong tâm
thức con người là Tại Thể hoài vọng luân lưu. Âm hưởng Sử Lịch phiêu
bồng trong chiều hướng quá vãng theo về bờ cõi mai sau.

Những tiếng Geschichte, geschichtlich, Geschichtlichkeit đều mang đủ những gì trầm trọng của Sein und Zeit(5) của Zeitlichkeit chan gội tồn lưu tố chất... Dịch giả Anh, Pháp đã bối rối rất nhiều trước những tiếng này. Việt Nam nhờ có Nguyễn Du nên đỡ sợ.
Tạm đưa một vài thí dụ để dễ nhận nghĩa hơn: khi bàn tới tiếng philosophia củaCổ Hy Lạp, Heidegger bảo: vì tiếng kia là của Hy Lạp ngàn xưa mênh mông, nên lời của philosophia là lời của nghĩa Con Ðường, lời của Ðạo. Ðến bây giờ, theo dấu cỏ, ta đi. Bước trên đường, và ta hiểu đạo philosophia. Nhưng thật ra cái con đường của yêu thương, cái sophon
đã mất nhiều cỏ hoa vì bàn chân ta thô bạo. Ta bứt trụi lá cây. Và từ
đó ta tưởng mình quen biết con đường, nhưng thật ra cũng hầu như không
biết. Biết rất mù mờ, dù có nhớ rõ vanh vách những hòn sỏi, những cồn
lau. Dù có thuộc làu làu những gì trong Cổ Sử: chuyện trước, chuyện sau,
câu đầu, hàng cuối, sử ký, sử ghi, sử sự tràn lan đùn đẩy. Vẫn chưa rõ
đạo của đường. Bởi đâu?

[Bỏ một đoạn trích tiếng Ðức của Bùi Giáng để làm bật nghĩa historische Kenntnisse.]
Ấy
bởi rằng những Sở Tri Sử Ký chồng chất kia (viele historische
Kenntnisse) nó nằm trong trí óc lao xao, nó xui ta bận trí đếm đo hoài,
nên ta không còn tâm linh mà mặc niệm. Ta bỏ lạc tồn lưu và mất trụi cái
cốt thiết của Căn Cơ ẩn kín (innerst Grundzug) của
Sử LịchGeschichte nằm trong Sử-tố-chất của Tại Thể - die Geschichtlichkeit des Daseins.
Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ
Quán thu phong đứng rũ tà huy
Lời
cổ độ gây rung động dị thường. Vì Dasein đã nhìn vạn vật trong vẻ kỳ ảo
Sơ Khai. U huyền trong cổ độ, huyền mộng trong tà huy, mộng tình trong
thệ thủy, tình tự trong thu phong... Ðứng rũ vì nhớ nhung, ngồi trơ vì
thê thiết. Quán và Cầu là hình ảnh của hoài niệm về Sơ Thủy không
nguôi...

Ðoạn
trích dẫn vừa rồi khá dài. Nhưng, ở đây, tôi chỉ muốn cho người đọc
thấy rằng nhiều khi chúng ta cứ tưởng rằng Bùi Giáng chỉ thích đùa cợt
gùn ghè giỡn chơi với chữ nghĩa, nhưng thật sự thì chẳng phải vậy. Ông
đùa giỡn, điên đảo, quẩn quanh hoa cỏ thật, nhưng ông cũng là một người
thật hết lòng nghiêm cẩn với chữ nghĩa của mình. Ta hãy thử đọc vài ba
định nghĩa nữa của ông về mấy từ thiết yếu trong sách của Heidegger,
người mà Bùi Giáng rất mực tâm đắc và yêu mến.
Sein: Hữu Thể, Tồn Thể, Vĩnh Thể.
Seiende: Hiện sinh, Hiện Thể, Vật Thể
Gefrage: Ðiệu hỏi ò e, lao xao, theo lối trường trại ồn ào, làm tan nát màu hương của chiêm niệm u uyên”.
Hai từ đầu nghiêm cẩn. Từ thứ ba rất "mông lung cỏ lá", diễn được cái ý xem thường "lối trường trại" ồn ào của Bùi Giáng.
3.
Con người của Bùi Giáng không chỉ để lộ nét tài hoa trong thơ của mình. Hay trong hằng ngàn trang sách của Tư Tưởng Hiện Ðại,
và trong hằng mấy ngàn trang sách khác nữa của những quyển khảo luận về
văn chương, tư tưởng Việt Nam cũng như về văn chương, tư tưởng thế
giới. Nét tài hoa ẩn mật mở phơi hào hứng của ông còn được thể hiện rất
rõ trong những dịch phẩm mà ông đã để lại cho đời. Tùy vào cái tạng của
mỗi người mà chúng ta có thể cảm hay không cảm, thích hay không thích
cái phong cách dìu ba đào về những chân trời viễn mộng trong những bản
dịch của Bùi Giáng. Dù sao, ai cũng phải công nhận đó là những bản dịch
đặc biệt, những bản dịch có một không hai trong văn dịch của chúng ta.
Có một lần, Bùi Giáng đã thổ lộ về quan niệm dịch văn của mình trong Lời Tựa quyển Cõi Người Ta(6)) mà ông dịch từ Terre des Hommes của Saint-Exupéry như sau:
“(...)
Theo dõi giấc mộng dài của Saint-Exupéry, lại gọi ngôn ngữ Việt Nam về
hạ tứ, nhiều phen phải bàng hoàng: Chúng ta đứng trước mấy lần hiểm họa
của màu sắc lục hồng cứ trùng điệp rủ nhau bay, tung lên phủ xuống (...)

Dịch
văn - sao cứ gọi là dịch? - dịch văn biến thành câu chuyện; vừa bay
lên, vừa lặn xuống, vừa lẽo đẽo nối liền hai bờ ngôn ngữ quá xa nhau.
Thật vừa vui, vừa mệt mỏi.

Ngôn ngữ đa âm đòi hỏi lối phiên dịch như thế nào qua ngôn ngữ đơn âm? Ðó là điều đáng xui chúng ta tư lự đăm chiêu.

lẽ: tiết điệu đa âm có một phong thái dồi dào đương yêu cầu được tái
hiện. Ðây là trường hợp: ở bên kia từ ngữ, tiết điệu của ngôn ngữ đương
nói rất nhiều.

May
sao, Việt ngữ đơn âm lại giàu sang âm vận. Nhưng không phải ở mọi cơ
hội đều giản dị giàu sang. Do đó cần thêm một chút chuyển hóa thỏa đáng
thì lời dịch sẽ tái lập được "cung bậc" gieo vàng của nguyên ngôn. Mà
nguyên ngôn Saint-Exupéry lại chứa chan những thơ mộng khi u trầm, ngậm
ngùi lúc lộng lẫy. Cái điệu nói la cà diệu vợi, vừa chát chát vừa hắt
hiu, lúc nhắc tình bạn hữu, lúc gợi tiếng U già, lúc chuyện trò với gái
trên nhịp cầu hai cõi hoang vu. "Tả nhi nữ tư tình, đãng khí hồi trường.
Tả anh hùng sự tích, nghĩa bạc vân tiêu.” (...).

Trong
bản dịch, có mấy chỗ thêm vài lời, ấy là gắng đưa ngôn ngữ đơn âm đuổi
theo tiết điệu ngôn ngữ đa âm. Thỉnh thoảng lại bớt vài lời, ấy là bởi:
Việt ngữ mang nhiều tính chất
parataxique trong khi Pháp ngữ lại triệt để là một ngôn ngữ syntaxique.”
Sau đây, ta hãy thử đọc một đoạn trong Terre des Hommes của Saint-Exupéry, rồi thử tìm xem cái giọng điệu lãng đãng thơ mộng ấy của Saint-Exupéry ngân vang bồi hồi trong bản dịch Cõi Người Ta của Bùi Giáng ra sao:
J'ai
atterri dans la douceur du soir. Punta Arenas! Je m'adosse contre une
fontaine et regarde les jeunes filles. A deux pas de leur grâce, je sens
mieux encore le mystère humain. Dans un monde où la vie rejoint si bien
la vie, où les fleurs dans le lit même du vent se mêlent aux fleurs, où
le cygne connait tous les cygnes, les hommes seuls bâtissent leur
solitude.

Quel
espace réserve entre eux leur part spirituelle! Un songe de jeune fille
l'isole de moi, comment l'y joindre? Que connaitre d'une jeune fille
qui rentre chez elle à pas lents, les yeux baissés et se souriante à
elle-même, et déjà pleine d'inventions et de mensonges adorables? Elle a
pu, des pensées, de la voix et des silences d'un amant, se former un
Royaume, et dès lors il n'est plus pour elle, en dehors de lui, que des
barbares. Mieux que dans une autre planète, je la sens enfermée dans son
secret, dans ses coutumes, dans les échos chantants de sa mémoire. Née
hier de volcans, de pelouses ou de la saumure des mers, la voici déjà à
demi divine.

Punta
Arenas! Je m'adosse contre une fontaine. Des vieilles viennent y
puiser; de leur drame je ne connaitrait que ce mouvement de servants. Un
enfant, la nuque au mur, pleure en silence; il ne subsistera de lui,
dans mon souvenir, qu'un bel enfant à jamais inconsolable. Je suis un
étranger. Je ne sais rien. Je n'entre pas dans leurs Empires.”
(7)
Lời văn của Saint-Exupéry mang tiết điệu trầm buồn, u hoài, đầy nét vợi xa lãng đãng. Và, từ đó, Bùi Giáng dịch là:
Tôi
hạ cánh giữa tịch mịch chiều vàng. Punta Arenas! Hãy nhìn ta tựa lưng
vào bờ giếng mà ngó gái giữa thanh xuân. Cách nhau hai bước, tôi càng
cảm thấy rõ cái lẽ huyền nhiệm kiếp người... Trong một thế giới mà sự
sống giao tiếp dễ dàng với sự sống, mà những cành hoa giữa lòng gió hồn
nhiên hôn phối với những cành hoa, một thế giới mà con thiên nga nào
cũng quen biết mọi con thiên nga, trong thế giới đó, chỉ riêng con người
là xây dựng căn lầu mộng cô đơn.

Phần
tinh anh còn cách biệt nhau nghìn trùng. Một giấc mộng "đầu hoa ngang
ngửa thắm" của gái xuân càng chia nường biệt lập tôi, biết làm sao mà
tìm cái lối vào
trong
nẻo đó ở trong kia? Làm sao hạnh ngộ, làm sao nghe ra, làm sao ngóng
thấy, làm sao biết rõ những cơn man mác trong nhịp bước gái tơ đi lững
thững chiều hôm về căn nhà cha mẹ, mắt lim dim khép mở hai hàng, hai đôi
má núng đồng tiền mở nụ, một mình mỉm cười với gió ẩy tà xiêm một mình
em hay, một mình em biết, một mình rộn lên những trận viễn du khai phá,
những mộng tưởng phát minh, những u hương rập rình quân nhạc dối nhau
xiêu đình đổ quán... Nàng đã tự thiết lập một điện đài ẩn bí trong một
vương quốc rẽ riêng, bằng những gì của riêng ai đem lại, bằng những gì
của gã tình nhân đăm chiêu tơ tưởng? bằng điệu nói của chàng? bằng lặng
lẽ của anh? Từ đó về sau, đối với em, chỉ riêng chàng là hoàng tử chí
tôn, ngoài chàng ra, người người trong thiên hạ thảy thảy là bọn lưu
manh man dại côn đồ? Em khép thân ngà trong một cõi, kín đáo hơn lối vào
một viễn cách hành tinh, em che lấp đời riêng trong những lối đi về
kiều diễm, trong những thói nhà băng tuyết, trong những âm thanh dìu dặt
của ký ức não nùng lờ lững phỉ phong. Sinh ra từ giữa lòng núi lửa, từ
giữa lòng thảo hoa, từ chất muối trùng khơi thổi mặn, mới đó hôm qua,
nay em đã hầu thành Tiên Nữ.

Punta
Arenas! Tôi tựa lưng vào bờ giếng. Những đàn bà già nua tới đây lấy
nước. Trong tấn bi kịch đời họ, ngày mai tôi sẽ biết riêng chỉ một cử
động tôi đòi ấy thôi. Một bé con ngửa cổ vào tường, khóc lặng lẽ. Ngày
mai trong kỷ niệm của tôi, sẽ chỉ còn ghi riêng hình ảnh một đứa bé lạc
loài, sầu khổ không nguôi. Tôi là kẻ lạ tới đây. Tôi không biết, không
biết gì hết cả. Thế giới họ, tôi không thể bước vào. Làm sao tôi dám
nói”.

Ngày còn trẻ, những năm mười tám, mười chín, hai mươi, đọc Terre des Hommes, rồi đọc bản dịch Cõi Người Ta
của Bùi Giáng, thú thật, tôi chịu không nổi. Trong những tháng năm tuổi
trẻ ấy, cái gì mình cũng muốn đâu vào đấy, cái gì mình cũng muốn thẳng
lối ngay hàng. Mình thích sự nghiêm cẩn, thích sự gọn gàng chính xác.
Câu văn của Bùi Giáng thêm thắt lòng vòng, ngõ trước vườn sau, mông lung
lá cỏ. Làm sao tuổi hai mươi ngày ấy chấp nhận được. Nhưng rồi thời
gian trôi qua lãng đãng. Bây giờ, đọc lại câu văn dịch của Bùi Giáng,
tôi thấy bập bềnh cái hơi thở u hoài của trần gian thênh thang mà miên
man lồng lộng. Trên những câu văn của Bùi Giáng, tôi vẫn thấy còn sót
lại một vạt nắng vàng trong man mác chiều tà. Người con gái đầy ắp xuân
thì, cúi đầu, tự mỉm cười với chính mình, bước đi lững thững về nhà,
trong lòng chất đầy mơ mộng. Những bàgià
ra giếng kín nước. Một cậu bé con ngửa cổ vào tường, khóc lặng lẽ. Câu
văn dịch của Bùi Giáng lòng vòng diệu vợi. Thế mà bây giờ, đọc lại, sao
tôi lại thấy nó để lại trong lòng mình những ấn tượng thật mạnh và buồn(Cool.
Một bản dịch khác của Bùi Giáng, cũng là một tác phẩm của Saint-Exupéry, mà tôi rất thích là quyển Le Petit Prince. Bản dịch của Bùi Giáng là Hoàng Tử Bé(9)
. Ðây là một cuốn sách tuyệt vời. Và bản dịch của Bùi Giáng cũng đạt
được độ tuyệt vời của nguyên tác. Cuốn sách kể lại câu chuyện của một
chú hoàng tử bé, sống trên một tinh cầu xa xăm. Chàng có một đóa hoa và
chàng đã ngày ngày tận tâm tưới nước, chăm sóc cho đóa hoa ấy. Ðó là một
đóa hoa đặc biệt của một chủng tử đặc biệt trên tinh cầu chàng. Ðó là
đóa hoa duy nhất của chủng tử nọ, và chính là vì đóa hoa yêu kiều diễm
lệ này mà hoàng tử bé đã lên đường phiêu lưu. Chàng đi qua nhiều tinh
cầu khác nhau và thấy được nhiều sự lạ lùng trong tính chất của "con
người": một ông vua, một người hay khoe khoang, một chàng thích ăn nhậu,
một người làm áp-phe, một người chuyên đi thắp đèn, một nhà địa lý. Tới
trái đất, sau khi gặp một con rắn, sau khi gặp những đóa hoa hồng,
hoàng tử bé kia gặp một con chồn. Và, trong nguyên tác cũng như trong
bản dịch của Bùi Giáng, con chồn này quả là phiêu hốt và thơ mộng đáng
yêu quá thể.
Sau
khi gặp gỡ, chào hỏi nhau, hoàng tử bé nói chàng muốn con chồn đến ở
chơi với chàng, vì chàng buồn quá. Con chồn trả lời là nó không thể chơi
đùa với chàng được vì nó chưa được "tuần dưỡng", bởi thế tính khí chưa
thuần. Hoàng tử bé hỏi con chồn "tuần dưỡng" là gì. Nhưng con chồn nói
sang chuyện khác. Sau hai, ba lần như thế, hoàng tử bé vẫn không quên
câu hỏi của mình. Chàng lại hỏi con chồn: Tuần dưỡng có nghĩa là gì?
“- Ðó là một điều bị quên lãng quá nhiều, con chồn đáp: Đó có nghĩa là "tạo nên những mối liên lạc..."
- Tạo nên những mối liên lạc?
-
Hẳn thế, con chồn nói. Ðối với tôi, chú hiện giờ chỉ là một đứa trẻ
giống y như trăm nghìn đứa trẻ bé khác. Và ta không cần thiết gì tới
chú. Và chú cũng chẳng cần gì tới ta. Ðối với chú, ta chỉ là một con
chồn lũi lang thang như trăm nghìn con chồn lũi phất phơ phiêu hốt dưới
sương trời lỗ đỗ thế thôi. Nhưng nếu chú tuần tuần thiện dưỡng ta, thì
chúng ta sẽ cần tới nhau. Chú sẽ trở nên duy nhất trong cõi đời, đối với
ta. Ta sẽ trở nên duy nhất trong cõi đời, đối với chú...

- Ta bắt đầu hiểu rồi đó, hoàng tử bé nói. Có một đóa hoa... ta tưởng nàng đã tuần dưỡng ta...
Thế rồi con chồn tâm sự:
-
Ðời ta tẻ nhạt. Ta đuổi bắt những con gà mái, loài người đuổi bắt ta.
Mọi con gà mái đều giống nhau, và mọi mọi con người đều giống nhau (dù
là người phồn hoa rực rỡ, dù là người phố thị đìu hiu...). Vậy nên ta có
u sầu chán ngán đôi chút. Nhưng nếu chú tuần dưỡng ta, cuộc sống của ta
sẽ sáng sủa ra, kể như có bóng mặt trời chiếu vào vậy (...). Và này coi
kìa! chú thấy ở đằng xa kia kìa những cánh đồng lúa mì đó chớ? Ta không
ăn bánh mì. Lúa mì đối với ta vô dụng. Những cánh đồng lúa mì chả có
nhắc nhở ta cái gì ráo. Và cái điều đó, thật đáng buồn! Nhưng chú có
những sợi tóc màu vàng óng. Vậy nên sự vụ sẽ trở thành huyền diệu, một
khi chú đã tuần dưỡng ta xong! Lúa mì, màu vàng óng, từ đó về sau sẽ
nhắc nhở ta nhớ tới chú. Và từ đó ta sẽ yêu tiếng gió thổi thánh thót
trong lúa mì hiu hiu...”.

Rồi
con chồn thủ thỉ hẹn hò. Cho nhu cầu "tuần dưỡng", nó yêu cầu hoàng tử
bé đến đúng giờ, mỗi ngày. Và nó giải thích rõ lý do vì sao chàng phải
đúng giờ như thế:
- “Nếu
chú đến, chẳng hạn, vào lúc bốn giờ chiều, thì khởi từ lúc ba giờ
chiều, cõi lòng ta đã bắt đầu sung sướng. Tới bốn giờ chiều thì, ha! ta
loay hoay, e ngại, ta ngồi đứng không an; ta sẽ khám phá được ý nghĩa vô
ngần hắt hiu của phù du mênh mông hạnh phúc! Nhưng nếu chú tới bất kể
lúc nào, thì ta sẽ chẳng biết đâu vào
đâu
mà mò ra cho đúng cái giờ phải chuẩn bị cho cái trái tim, cái phút phải
vận y phục vào cho cái cõi lòng đón chào tươm tất... Cần phải có những
nghi thức thơ mộng, những điển lễ phôi pha”.

"Tuần dưỡng",
từ này nghe lạ. Bùi Giáng khéo chọn từ, nó làm cho mình nhớ mãi. Trong
những dịp đi lang thang vào các nhà sách bên Âu Châu, năm này năm nọ tôi
đã mua được năm sáu bản dịch khác nhau của tác phẩm này. Vì là sách
dành cho trẻ con (!)(10),
ấn bản của ngôn ngữ nào cũng in thật đẹp với những hình vẽ bằng màu
nước của chính Saint-Exupéry. Trở lại với "tuần dưỡng". Ở đây, xin lấy
ra vài bản dịch với những ngôn ngữ thông dụng. Trong nguyên tác,
Saint-Ex dùng từ Apprivoiser. Bản Anh dịch của Katherine Woods, dùng từ Tame. Bản Tây Ban Nha, dịch giả Bonaficio del Carril dùng Domesticar.
Những từ này, nói chung, là những từ bình thường, quen thuộc, không đặc
biệt tạo ra một ấn tượng rõ nét. Từ của Bùi Giáng dùng, đối với người
Việt chúng ta, nghe thấy lạ lẫm. Và nó tạo được ấn tượng sâu sắc làm cho
ta nhớ mãi.
Câu con chồn nói, "Ðối
với chú, ta chỉ là một con chồn lũi lang thang giống như trăm nghìn con
chồn lũi phất phơ phiêu hốt dưới sương trời lỗ đỗ thế thôi"
là một câu đầy nét Bùi Giáng. Bản chính chỉ là "Je ne suis pour toi qu'un renard semblable à cent millle renards." Bản Anh dịch là, "To you, I am nothing more than a fox like a hundred thousand other foxes”. Bản Tây Ban Nha, "No soy para ti más que un zorro semejante a cien mil zorros." Cái sự vụ "lang thang (...) phất phơ phiêu hốt dưới sương trời lỗ đỗ"
hoàn toàn là do Bùi Giáng thêm vào. Nhưng sao nó lại làm cho câu văn
phiêu bồng phất phơ thơ mộng làm vậy! Dịch được một câu như thế có lẽ vì
chính Bùi Giáng cũng đã là một con người "lang thang phất phơ phiêu hốt
dưới sương trời lỗ đổ" suốt cả đời mình.
Câu "Cần phải có những nghi thức thơ mộng, những điển lễ phôi pha", trong chính bản chỉ là, "Il faut des rites." Bản tiếng Anh, "One must observe the proper rites..." Bản Tây Ban Nha, "Los ritos son necesarios."
Câu "Mọi
con gà mái đều giống nhau, và mọi mọi con người đều giống nhau (dù là
người phồn hoa rực rỡ, dù là người phố thị đìu hiu...). Vậy nên ta có u
sầu chán ngán đôi chút"
, trong chính bản là "Toutes les poules se ressemblent, et tous les hommes se ressemblent. Je m'ennuie donc un peu." Bản Anh, "All the chickens are just alike, and all the men are just alike. And, in consequence, I am a little bored." Bản Tây Ban Nha, "Todas las gallinas se parecen y todos los hombres se parecen. Me aburro, pues, un poco." Cái phần thêm thắt vào, "dù là người phồn hoa rực rỡ, dù là người phố thị đìu hiu",
của Bùi Giáng, trong cảm nhận của riêng tôi, thật là "đã". Nó làm cho
con chồn lũi ấy phất phơ phiêu hốt hơn những con chồn trong chính bản và
trong các bản dịch kia nhiều. Nó làm cho cuộc đối thoại của hoàng tử bé
và chú chồn ấy "có da có thịt" thêm. Nó làm cho những "nhân vật" ấy có
cá tính hơn nữa.
Như thế, ta thấy rõ là Bùi Giáng đã làm đúng với quan niệm dịch văn mà ông đã đề ra, "Dịch
văn biến thành câu chuyện; vừa bay lên, vừa lặn xuống, vừa lẽo đẽo nối
liền hai bờ ngôn ngữ quá xa nhau. (...) Trong bản dịch, có mấy chỗ thêm
vài lời, ấy là gắng đưa ngôn ngữ đơn âm đuổi theo tiết điệu ngôn ngữ đa
âm. (...)"
Bùi Giáng, trên một số phương diện, quả đã thành công một cách đáng yêu trong những bản dịch của mình.
4.
Tôi nhớ trong tập Mưa Nguồn, Bùi Giáng có viết:
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ta đi gửi lại đôi dòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù.
Bùi
Giáng đã ra đi rồi. Nhưng vầng trăng ông để lại vẫn mãi còn nguyên một
màu sơ thủy. Những lá hoa cồn hay những dòng chữ mà ông để lại cho đời
vẫn thấp thoáng mãi trong những bóng sương mù của thi ca, của hồn nguyên
tiêu ngày cũ. Mãi mãi, chúng sẽ còn để ngân lại trong lòng những người
yêu quý ông những tiếng gọi trở về. Trở về bến sơ đầu của những cơn mưa
nguồn ngày cũ, của những bài ca quần đảo hoang vu, của những lời cố quận
mịt mù gang tấc. Hẳn đã nhiều lần trong cuộc tồn sinh của mình, Bùi
Giáng đã nhận thấy rằng quê hương của ông, cố quận của ông, đã không còn
như xưa. Dù quê hương hay cố quận đó có được hiểu như thế nào đi nữa
thì ông cũng đã "chết nhiều lần trong trận sống", và trong cuộc đời này,
hình như nhiều lúc ông đã lạc mất lối về. Bởi thế, để tìm về đường xưa
lối cũ của những Hồn Nguyên Tiêu (Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài/ Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua / Lỡ từ lạc bước bước ra/ Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn), có lẽ người thi sĩ ấy chỉ còn có thể tìm về và tìm vào trong những cuộc chiêm bao:
Hỗn mang về giữa hiên nhà
Bây giờ cố quận tên là chiêm bao.
(Rượu Uống)
Một giấc chiêm bao có mang mang thật nhiều nắng lạ:
Người nằm ngủ thấy gì
Thấy thật nhiều nắng lạ.
(Mưa Nguồn)
Nắng
lạ ấy có lẽ là thứ nắng đã làm cho "trời xanh đỏ chín" trong rừng sim
những ngày chăn bò tuổi trẻ của Bùi Giáng. Và chắc đó cũng là thứ nắng
làm cho ông thấy "Cây lá bốn bên song song từng lứa/ Sánh đôi nhau như ứa lệ ngàn hàng" khi ông để cho bò tự do gặm cỏ trong rừng sim, còn mình thì nằm ngó ngất ngây trời đất, nghe "Mùi thoang thoảng lách lau sương đượm/ Mùi gây gây gấy gấy của hương rừng/ Mùilên men phủ ngập mông lung/ Không biết nữa mà cần chi biết nữa".
Bùi Giáng đã yêu trần gian, yêu cuộc sống, yêu cuộc chơi mà ông đã dấn thân vào với tất cả hồn xác, với tất cả "thân thể máu me và da xương" của mình biết bao:
(...) Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi
Trần gian ơi! cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn
Còn ở lại một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở với trăng sao
Thì cánh mộng còn tung lên không ngại
Níu trời xanh tay với kiễng chân cao.
(Mưa Nguồn)
Ðọc
Bùi Giáng, biết về cuộc sống của ông sau này, thương yêu và quý mến ông
làm có những khi tôi tự hỏi rằng tuổi thơ của ông đã như thế nào, và
ông đã sống tuổi trẻ của mình ra sao. Ông đã nhìn thấy những gì khi ông
vừa biết mở rộng cặp mắt để ngó vào đời. Những viễn tượng nào trong thuở
đầu xanh mà ông nhìn thấy đã đẩy ông vào cuộc lữ:
Cũng vô lý như lần kia dưới lá
Con chim bay bỏ lại nhánh khô cành
Ðời đã mất tự bao giờ giữa dạ
Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh

Buổi trưa đi vào giữa lòng lá nhỏ
Tiếng kêu kia còn một chút mong manh
Dòng nức nở như tia hồng đốm đỏ
Lạc trời cao kết tụ bóng không thành

Lá cũng mất như một lần đã lỡ
Trời đã xanh như tuổi ngọc đã xanh
Trời còn đó giữa tháng ngày lỡ dở
Hồn nguyên tiêu ai kiếm lại cho mình

Ðường vất vả vó ngựa chồn lảo đảo
Cồn sương đi vào sương lạnh miên man
Bờ bến cũ ngậm ngùi sông nước dạo
Ðêm tàn canh khắc vợi nguyệt gương ngàn

Một lần đứng lên mấy lần ngồi xuống
Ngón trên tay và tóc xõa trên đầu
Tình đếm lại muôn vàn thôi đã uổng
Ðể bây giờ em có biết nơi đâu
Bờ trùng ngộ một phen nầy phen nữa
Tờ cảo thơm như lệ ứa pha hồng
Hồn hoa cỏ Phượng Thành Hy Lạp úa
Nghe một lần vĩnh viễn gặp hư không.
(Hư Vô Và Vĩnh Viễn, Mưa Nguồn)
Nguyễn
Ðức Quỳnh có lần nói Bùi Giáng giống như là Lão Tử. Ông không dẫn giải
gì thêm. Thật sự, so sánh nào cũng khập khễnh, nhất là khi ta so sánh
những đối tượng sống xa nhau cả trong thời gian lẫn không gian như thế.
Nhưng nếu ta chấp nhận tính tương đối của sự so sánh, hẳn nhiên nhận xét
ấy có những điểm đích đáng của nó. Lão Tử chống lại và mạt sát lễ.
Chương 38 sách Lão Tử (Ðạo Ðức Kinh) chép: "Thất
Đạo nhi hậu Đức, thất Đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa, thất
nghĩa nhi hậu lễ. Phù lễ giả, trung tín chi bạc nhi loạn chi thủ"
, có nghĩa là "Ðạo
mất rồi sau mới có Ðức, Ðức mất rồi sau mới có nhân, nhân mất rồi sau
mới có nghĩa, nghĩa mất rồi sau mới có lễ. Lễ là biểu hiện sự suy vi của
trung tín (trung hậu, thành tín), là đầu mối của sự hỗn loạn"
(11).
Bùi
Giáng cũng không thích lễ nghi phiền toái. Ông rất ghét cái thói "lễ
nghĩa" của những kẻ từ chương, trường ốc mà ông gọi là "bọn trường trại
lao xao". Ông không thích cái giọng mà ông gọi là
"bo-bo-lễ-nhượng-hương-nguyện-lưa-thưa" của họ. Ông cũng rất ghét những
màn thủ tục lễ nghi rườm rà. Thậm chí, theo Mai Thảo, có những lần Bùi
Giáng ra đứng tắm ở cái máy nước trước tòa soạn báo Văn
cũ ở đường Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn, thản nhiên trước bao nhiêu người qua
kẻ lại, quần áo lướt thướt đi qua đường, một đám con nít tròn mắt đi
theo. Ông mặc quần áo thùng thình, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải trên
vai, lại thêm một cây gậy chống nữa. Ông lang thang đây đó, ngủ bất cứ ở
đâu, dưới trời sao, dưới một gầm cầu, hay dưới một mái hiên. Có những
lúc lại thấy ông đeo một xâu chuỗi toàn giày dép và quần áo phụ nữ quanh
cổ. Trẻ con và người lớn đều xem ông là một người điên. Bùi Giáng điên
vì đời. Nhưng, ở một mặt nào đó, ông lại là một người rất sáng suốt. Lão
Tử giấu mình, ẩn danh. Bùi Giáng sống với đời, thiết tha với cuộc chơi
mà ông đã chọn với tất cả "thân thể máu me và da xương" của mình. Tôi
nghĩ, trong nhiều khía cạnh, có lẽ Bùi Giáng giống Trang Tử hơn. Trang
Tử chọn lối sống tiêu dao, lại thích lý luận, tranh cãi hào hứng với mọi
người, đặc biệt với bạn thân là Huệ Tử. Một cá tính nữa của Trang là
vui sống, thiết tha với cuộc sống(12).
Tất cả những điều này ta đều thấy thể hiện nơi con người Bùi Giáng. Ông
là con người của tiêu dao, lang thang phiêu hốt dưới sương trời lỗ đỗ,
không chấp nhận bất cứ một hình thức gò bó nào. Và ông chấp nhận trả giá
cho cuộc chơi, cho cuộc tồn sinh của mình.
Nói mà chơi chứ Bùi Giáng chẳng phải Trang mà cũng chẳng phải Lão. Ông là một con người Việt Nam, yêu Truyện Kiều,
yêu Nguyễn Du, Huy Cận, và yêu luôn ca dao chuồn chuồn châu chấu. Ông
yêu ngôn ngữ quê hương, và ông đã cả đời ăn nằm, chơi nghịch nghiêm
trang với nó. Bùi Giáng là một người đã đi lang thang trong chốn tư
tưởng của nhân loại, trong cõi thi ca của thế giới, nhưng lúc nào ông
cũng chỉ muốn cuộn mình "tròn trịa méo mó" để nằm trong vòng nôi của
ngôn ngữ dân tộc. Hôm nay, ông đã bỏ đi. Bỏ đi để tìm lại một màu hoa
cũ. Một màu hoa trên ngàn. Một hồn nguyên tiêu. Một giấc mộng ban đầu đã
bao năm khuất bóng. (Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu / Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa).
Xin chúc ông lên đường phơi phới. Xin chúc ông tìm lại được một bầy
nắng lạ. Và nguyên sơ một vầng trăng cũ. Một vầng trăng châu thổ. Cùng
những sắc màu thiên thu cổ độ. Và xin bẻ tặng ông một nhành mai ngày cũ.

Những nhành mai sớm sương bên lá
Những nhành liễu chiều gió bên cây
Cũng lay lắt bởi đời xuân em ạ
Thế nên chi anh cũng viết dòng này

Hồng vàng tụ bữa kia em có thấy
Nước xuôi dòng là cổ độ nhìn theo
Tuổi mười sáu bây giờ lên gấp gảy
Mộng miên man là mây phủ lưng đèo

Buồn phố thị cũng xa bay như gió
Cộ xe nhiều cũng nhảy bổng như hươu
Bờ cõi dựng xuân xanh em còn đó
Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu

Tìm theo dấu chân người xưa tư lự
Ở bên đường ngóng dõi khánh vân bay
Mờ con mắt một lần lên tiếng thử
Em ồ em, anh nói một lời này.
(Những Nhành Mai,
trích nguyên bài trong Mưa Nguồn)
Bùi
Giáng, có lẽ đã đến lúc ông lên đường trở về Cố Quận. Chúng ta phải
chia tay. Lần cuối, xin tiễn ông một bài thơ cũ. Một bài thơ năm nào.
Tôi vẫn tin rằng, một ngày nào đó, một cách nào đó, ông sẽ trở về. Và, ở
đây, tôi xin phép được không nói lời vĩnh biệt.
Người đã bỏ đường kia ở lại
Ðể đi vào đối diện hư không
Bờ thánh thót thu sau về vạn đại
Lời chào kia nức nở lạnh vân mồng

Bóng trắng như sương vàng bay pha hạc
Quanh Trường Thành bờ cõi đất in rêu
Dòng trở lại ngậm ngùi khe bến cát
Gió mông lung vì mây nổi lưng đèo
Xuân đi đến đi về nằm ở giữa
Hẹn một kỳ bấn loạn mấy mùa đông
Màu tuyết bạch mơ màng trang lệ ứa
Rớt chung quanh là đú đởn cầu vồng

Từ vĩnh biệt một lần đi từ đó
Nước xuôi dòng cổ độ chẳng nhìn theo
Lòng lây lất bên trời phương hướng nọ
Mắt ngu ngơ nhìn bọt nước sa bèo
(Từ Thức, trích nguyên bài trong tập Lá Hoa Cồn)
Irvine, California, 1998









(*) Bài đăng trên Hợp Lưu, số 44, tháng 12/1998 & tháng 1/1999.
Bùi Vĩnh Phúc: Nhà văn, nhà nghiên cứu tâm lý, văn chương, sinh năm 1953 tại Hà Nội, lớn lên ở Sài Gòn, hiện sống tại Hoa Kỳ.


(1) Trong Ngày Tháng Ngao Du, Bùi Giáng thổ lộ: "(...) Hồi
nhỏ, tôi đã được sanh ra và lớn lên trong miền quê hẻo lánh, xung quanh
có ruộng đồng sông núi trùng điệp, những đám cỏ chạy suốt cả tuổi thơ
(làng tôi xưa kia có nhiều cỏ mọc. Cỏ mọc từ trong làng ra ngoài ruộng,
tới những cồn, gò, đồi núi thật xanh. Từ đó về sau, tôi tìm kiếm mãi một
màu xanh không còn nữa vì những trái bom và hòn đạn thiêu nướng khổng
lồ...
."



(2) Xem Bùi Vĩnh Phúc, Vấn đề thẩm thức một tác phẩm nghệ thuật, Văn Học số 10 (tháng 11, 1986). Ðăng lại trong Hai mươi năm văn học Việt Nam hải ngoại, 1975-1995 (California: Ðại Nam, 1995) và Lý luận và phê bình/ Hai mươi năm văn học Việt ngoài nước, 1975-1995 (California: Văn Nghệ, 1996).


(3)
Ðọc sách có nhiều cách đọc, và cách đọc của Bùi Giáng (và ngay cả cách
dịch của ông) mang rất đậm tính phơi phới, phóng khoáng và thơ mộng. Dù
là trong thi ca, trong dịch thuật, hay trong việc phê bình tư tưởng hiện
đại, cách làm của Bùi Giáng mang cái cung cách của một thi sĩ. Với tự
do của chính hắn ta. Ðiều đó có thể rất trái chống với tinh thần làm
việc một cách khoa học, phân minh và nghiêm túc. Nói như vậy để đặt trở
lại tất cả tác phẩm của Bùi Giáng trong một mắt nhìn nào đó mà tôi nghĩ
tôi muốn có khi tiếp cận những gì ông viết. Dĩ nhiên, một con người như
Bùi Giáng có thể được tiếp cận từ nhiều giác độ khác nhau. Và chính
những sự khác biệt trong mắt nhìn của người đời ấy tạo nên vóc dáng của
Bùi Giáng.


(4) Trong Martin Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Ðại II (Saigon: Bờ Cửu Long Nam Việt), 1963. [Ðề tên nhà xuất bản như thế, nhưng tôi nghĩ đây là nhà xuất bản An Tiêm
của thày Thanh Tuệ]. Ở đây, phê bình Sartre, nhưng Bùi Giáng phần nào
vẫn còn lòng quý mến Sartre; bởi thế, ông áp dụng chiến thuật vừa đánh
Sartre lại vừa đỡ đòn cho triết gia này. Tôi nghĩ, dù sao đi nữa, Bùi
Giáng vẫn còn lòng quý mến Sartre, đặc biệt qua vở kịch Les Mouches
Về Đầu Trang Go down
http://mtt080.handisports.net
 
Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (*) Bùi Vĩnh Phúc
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Bùi Giáng
»  Nhà Thơ Bùi Giáng
» BÙI GIÁNG LÀ AI?

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Hoa Học Trò :: Your first category :: THƠ :: BÙI GIÁNG --
Chuyển đến